Thứ Tư, 28 tháng 7, 2010

Phú Quốc

Phú Quốc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phú Quốc
Địa lý
Trực thuộc tỉnh: Kiên Giang
Trụ sở Ủy ban Nhân dân: Ủy ban nhân dân huyện Phú Quốc
Vị trí: 10°17'60.00" độ vĩ bắc, 103°59'60.00" độ kinh đông
Diện tích: 589,23 km2
Số xã/phường: 2 thị trấn, 8 xã
Dân số
Số dân: 93.000 người (2010)
- Nông thôn ?%
- Thành thị ?%
Mật độ: 158 người/km2
Thành phần dân tộc: Chủ yếu là Việt
Hành chính
Chủ tịch Hội đồng nhân dân: Đã bãi bỏ
Chủ tịch Ủy ban nhân dân: Phạm Vũ Hồng
Thông tin khác
Điện thoại trụ sở: (84) (77)3994771
Số fax trụ sở: (84) (77) 3994770
Website: [1]
Xếp loại đô thị:
Phú Quốc hay còn được mệnh danh là Đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất của Việt Nam, cũng là đảo lớn nhất trong quần thể 22 đảo tại đây, nằm trong vịnh Thái Lan. Đảo Phú Quốc cùng với các đảo khác tạo thành huyện đảo Phú Quốc trực thuộc tỉnh Kiên Giang. Toàn bộ huyện đảo có tổng diện tích 589,23 km²(theo thống kê số liệu đất năm 2005), xấp xỉ diện tích đảo quốc Singapore. Thị trấn Dương Đông, tọa lạc ở phía tây bắc, là thủ phủ của huyện đảo. Phú Quốc nằm cách thành phố Rạch Giá 120 km và cách thị xã Hà Tiên 45 km.
Mục lục [ẩn]
1 Vị trí địa lý
2 Địa hình
3 Các đơn vị hành chính trực thuộc
4 Lịch sử
5 Dân cư
6 Văn hóa, tôn giáo
7 Khí hậu - Thủy văn
8 Kinh tế
9 Tài nguyên - khoáng sản
10 Hồ tiêu Phú Quốc
10.1 Đặc tính
10.2 Phân bố
10.3 Giống và Năng suất
11 Đặc sản
12 Danh lam - Thắng cảnh - Du lịch
13 Hình ảnh
14 Liên kết ngoài
[sửa]Vị trí địa lý

Đảo Phú Quốc nằm trong vịnh Thái Lan, phía tây nam của Việt Nam, Phú Quốc trải dài từ vĩ độ: 9°53′đến 10°28′độ vĩ bắc và kinh độ: 103°49′đến 104°05′độ kinh đông.
[sửa]Địa hình

Vùng biển Phú Quốc có 22 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó đảo Phú Quốc lớn nhất có diện tích 567 km² (56.700 ha), dài 49 km, nơi rộng nhất (ở phía bắc đảo) 25 km, nơi hẹp nhất (ở phía nam đảo) 3km. Điểm cao nhất tới 603 m (núi Chúa). Địa hình thiên nhiên thoai thoải chạy từ bắc xuống nam với 99 ngọn núi đồi. Phần các vùng biển quanh đảo nông có độ sâu chưa đến 10 m. Tuy nhiên, cụm đảo nhỏ của cảng An Thới bị ngăn cách hẳn với phần mũi phía nam của đảo Phú Quốc bởi một eo biển có độ sâu tới hơn 60 m.
[sửa]Các đơn vị hành chính trực thuộc

Phú Quốc được chia thành 8 xã, 2 thị trấn là:
Thị trấn Dương Đông
Thị trấn An Thới
Xã Dương Tơ
Xã Cửa Cạn
Xã Gành Dầu
Xã Cửa Dương
Xã Bãi Thơm
Xã Hòn Thơm
Xã Hàm Ninh
Xã Thổ Châu
Mã số điện thoại đường dài trong nước: 077 hoặc +84-77 (từ nước ngoài)
[sửa]Lịch sử



Cảng Dương Đông ở đảo Phú Quốc
Năm 1671, một người Hoa tên Mạc Cửu (Mạc Kính Cửu), quê ở Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, mang cả gia đình, binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người lên thuyền rời khỏi Phúc Kiến. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, phái đoàn Mạc Cửu đổ bộ lên một vùng đất hoang trong vịnh Thái Lan. Sau khi dò hỏi và biết vùng đất này thuộc ảnh hưởng Chân Lạp, phái đoàn liền tìm đường đến Oudong xin tị nạn, nhưng lúc đó nội bộ Chân Lạp có loạn. Mạc Cửu gặp Nặc Ông Thu (Ang Sur, Jayajettha III) và ở lại hợp tác cho đến năm 1681.
1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác.
Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Kompong Som), Sài Mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (cảng của người Mán, tức người Khmer), sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo). Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có).
Năm 1708, Mạc Cửu liên lạc được với Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu.
Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn và được phong chức tổng binh cai trị đất Căn Khẩu.
Năm 1724, Mạc Cửu dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc cai trị lãnh thổ Căn Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh.
Từ 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan.
Năm 1735, Mạc Cửu mất, con là Mạc Sĩ Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, được phong làm đô đốc, kế nghiệp cha cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương Nguyễn Phúc Trú nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi tên thành Hà Tiên trấn.
Năm 1739, Mạc Thiên Tứ lập thêm bốn huyện: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (bắc Bạc Liêu).
Năm 1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm Bôn (Cần Thơ) và Lôi Lập (Long Xuyên) để được về Nam Vang cai trị. Năm 1758, chúa Nguyễn đưa Nặc Tôn (Ang Ton II) lên làm vua và được tặng thêm lãnh thổ Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc). Nặc Tôn tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ 5 phủ miền Đông-Nam Chân Lạp: Hương Úc (Kompong Som), Cần Bột (Kampot), Trực Sâm (Chưng Rừm), Sài Mạt (Cheal Meas) và Linh Quỳnh (vùng duyên hải từ xã Sré Ambel đến làng Peam), nói chung là toàn bộ vùng biển ven duyên quanh đảo Phú Quốc, Mạc Thiên Tứ dâng hết cho Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Võ vương sát nhập tất cả các vùng đất mới vào trấn Hà Tiên, giao cho Mạc Thiên Tứ cai trị.
[sửa]Dân cư

Trước năm 1975 dân số trên đảo chỉ hơn 5000 người. Sau năm 1975, dân số trên đảo tăng lên nhanh chóng do hiện tượng di dân. Đến năm 2003, theo thống kê của tỉnh Kiên Giang dân cư sinh sống trên đảo đã lên đến trên 79.800 người, với mật độ trung bình là 135 người/km², thấp hơn mật độ trung bình của cả nước 253 người/km².
Các khu dân cư chính:
Thị trấn Dương Đông
Thị trấn An Thới
Làng chài Hàm Ninh
Làng chài Cửa Cạn
Xã đảo Hòn Thơm
[sửa]Văn hóa, tôn giáo

Ở đảo Phú Quốc, vào ngày rằm tháng 7 âm lịch người dân thường đi chùa tại thị trấn Dương Đông. Vào ngày này sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá nhộn nhịp.
Phú Quốc được xem là nơi phát tích của đạo Cao Đài. Ngày nay trên đảo có một thánh thất Cao Đài ở thị trấn Dương Đông.
Phú Quốc này trước đây có một số nhà nguyện, nhà thờ: Khoảng năm 1930, một số giáo dân miền bắc vào đảo này làm đồn điền cao su ở gần Bãi Khem. Hai linh mục người Malaysia là cha Albe1za và Merdrignac đã cho xây một nhà nguyện tạm bằng lá để làm nơi cầu nguyện,lễ lạc. Việc trồng cao su thất bại nên một số lớn dân chúng vào đất liền chỉ còn lại ít dân nhà nguyện dần dần bị bỏ hoang.
Năm 1955, một linh mục cho xây nhà thờ ở thị trấn Dương Đông. Sau năm 1975, người ta bỏ đi, nhà thờ này lại bỏ trống, hiện nay được Nhà Nước quản lý. Khoảng thời gian gần đây, số giáo dân ở Dương Đông ngày càng nhiều và có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, thế là mọi người tụ tập tại một nhà người dân có vườn rộng để cùng dâng lễ; cha xứ và hai cha phó thay phiên nhau đến đây hằng tuần, đáp ứng nhu cầu tâm linh.
Nhà thờ An Thới được thành lập vào năm 1957, khi đó có 1.000 giáo dân quê quán ở Nghệ An vào đảo sinh sống. Cùng ra đảo với bà con có cha Giuse Trần Đình Lữ; từ đó, nhiều linh mục và thầy giảng đã được Đức Cha giáo phận Long Xuyên sai đến để phục vụ. Hiện nay, cha Gioan Trần Văn Trông là chính xứ với hai cha phó trẻ giúp mục vụ là cha Hải Đăng và cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Cảnh. Với số giáo dân là 2.000 người,
[sửa]Khí hậu - Thủy văn

Do vị trí đặc điểm của Đảo Phú Quốc nằm ở vĩ độ thấp lại lọt sâu vào vùng vịnh Thái Lan, xung quanh biển bao bọc nên thời tiết mát mẻ mang tính nhiệt đới gió mùa. Khí hậu chia hai mùa rõ rệt, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 âm lịch đến tháng 4 âm lịch năm sau và mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 âm lịch đến tháng 10 âm lịch năm sau. Mùa khô: Đảo Phú Quốc chịu ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc có cường độ tương đối mạnh, tốc độ gió trung bình 3,2 m/s. Khi gió Đông Bắc mạnh, tốc độ đạt từ 20 đến 24 m/s. Mùa khô có độ ẩm trung bình 78%. Nhiệt độ cao nhất 35 độ C vào tháng 4 và tháng 5. Nhiệt độ trung bình khoảng 27 - 28 độ C. Mùa mưa: Đảo Phú Quốc là cửa ngõ đón gió mùa Tây - Tây Nam, tốc độ gió trung bình 4,5 m/s. Mùa mưa mây nhiều, độ ẩm cao, từ 85 đến 90%. Lượng mưa trung bình là 414 mm/tháng. (Cả năm trung bình là 3000 mm). Trong khu vực Bắc đảo có thể đạt 4000 mm/năm; có tháng mưa kéo dài 20 ngày liên tục.
[sửa]Kinh tế

[sửa]Tài nguyên - khoáng sản

[sửa]Hồ tiêu Phú Quốc

là một loại gia vị được coi là đặc sản của huyện đảo Phú Quốc thuộc Tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.


Cây tiêu Phú Quốc
[sửa]Đặc tính


Tiêu đang phơi
Hồ tiêu Phú Quốc có vị thơm và cay nồng, và đặc biệt là đậm vị hơn nhiều loại hồ tiêu đến từ những vùng miền khác, trong đó phải kể đến tiêu đỏ (tiêu chín). Tiêu được người dân Phú Quốc thu hoạch từng đợt chín và chủ yếu là bằng thủ công, chọn lựa những quả chín phơi riêng gọi là tiêu chín (tiêu đỏ), những quả còn xanh sau khi phơi khô được gọi là tiêu cội (tiêu đen). Do nhu cầu của thị trường, người dân đã dùng tiêu đen tẩy bỏ vỏ chỉ còn lại phần lõi hạt gọi là tiêu sọ. trong các loại tiêu thì tiêu chín là ngon nhất và đắt tiền nhất.
Một đặc tính canh tác nữa là hàng năm người trồng tiêu thường lấy những vùng đất mới xung quanh vườn bón xung quanh gốc cây (còn gọi là "đất xây thầu"). Cây nọc (choái) chủ yếu là lấy từ lõi của các loại cây quí như ổi rừng, kiềng kiềng, trai, chay, săn đá,... Phân bón chủ yếu là phân bò, phân cá, xác mắm (phần xác cá cơm bị loại bỏ sau khi hoàn tất quy trình sản xuất nước mắm).
Hom giống chủ yếu trồng từ hom thân nên giá thành rất cao. Trung bình để trồng xong một ha từ 300 - 400 triệu/ha nên ít có nông dân đủ tiền trồng một lần đủ diện tích lớn mà phải trồng từ từ nhiều năm, nên một vườn tiêu ở Phú Quốc thường là có nhiều tuổi khác nhau.
[sửa]Phân bố
Cây Hồ tiêu được trồng ở Phú Quốc hàng trăm năm. Với diện tích trung bình là 471ha tập trung ở 3 xã Cửa Dương, Cửa Cạn và Dương Tơ. Thời điểm diện tích lớn nhất là vào những năm 1995-2000 là hơn 1000 ha[1]. Đây là thời điểm giá tiêu cao nhất (100 - 120.000 đồng/kg tương đương 30 - 40 kg gạo) người trồng tiêu có lời từ 200 - 300 triệu/ha (thời điểm năm 1995 - 2000) [cần dẫn nguồn].
[sửa]Giống và Năng suất
Giống trồng chủ yếu là 2 giống Hà Tiên và Phú Quốc (HT lá lớn và HT lá nhỏ). Hai nhóm giống này có thới gian thu hoạch gần tương đương nhau từ tháng 11 âm lịch kéo dài hết tháng 2 âm lịch. Giống Hà Tiên có năng suất cao hơn nhóm Phú Quốc nhưng tuổi thọ và kháng sâu bệnh kém hơn.


Tiêu đã được phơi khô
Năng suất tiêu ở Phú Quốc trung bình là 2000 - 3000kg/ha, mật độ trồng từ 2500 - 3000 nọc/ha.
[sửa]Đặc sản

Nước mắm Phú Quốc
Còi biên mai
Chó Phú Quốc
Tiêu Phú Quốc
Cá khô Thiều
Rượu Sim
Nấm Tràm
Rượu Mỏ quạ
Rượu Hải mã
Hải Sản
Ngọc trai biển
Cá bớp
Điều Phú Quốc
Cá Trích
[sửa]Danh lam - Thắng cảnh - Du lịch

Phú Quốc được xác định là trung tâm du lịch sinh thái và trung tâm giao thương tầm cỡ khu vực và quốc tế. Tại đây có nhiều thắng cảnh đẹp như:


Bãi biển phía nam Phú Quốc


Toàn cảnh Dinh Cậu
Vườn quốc gia Phú Quốc
Khu bảo tồn biển Phú Quốc
Dinh Cậu
An Thới
Bãi Khem / Kem
Nhà Lao Cây Dừa
Mũi Ông Đội
Bãi Vịnh Đầm
Bãi Sao
Bãi Xếp Lớn
Bãi Xếp Nhỏ
Núi Cô Chín
Núi Radar
Bãi Đất Đỏ
Quần đảo An Thới
Hòn Thơm
Hòn Dừa
Hòn Rỏi
Hòn Đụn
Hòn Gầm Ghì
Hòn Mây Rút
Hòn Kim Qui
Hòn Dăm
Hòn Xưởng
Dương Đông
Suối Đá Bàn
Dinh Cậu
Bãi Trường
Rạch Tràm
Rạch Vẹm
Bắc Đảo
Bãi Thơm
Gành Dầu
Bãi Dài
Làng chài Hàm Ninh
Bãi Vòng
Suối Tranh
[sửa]Hình ảnh


Bờ biển Phú Quốc


Bờ biển Phú Quốc


Bờ biển Phú Quốc


Tàu đánh cá mực


Tàu đánh cá


Nhà sản xuất nước mắm


Cầu sắt trên sông Dương Đông


Cửa sông Dương Đông


Một khách sạn ở Phú Quốc


Một khách sạn ở Phú Quốc


Chợ Dương Đông


Chợ Dương Đông


Chùa Sùng Hưng


Bãi biển Phú Quốc


Bãi Sao Phú Quốc


Sông Dương Đông


Suối Tranh


Đền thờ Nguyễn Trung Trực


Làng đánh cá

Vườn quốc gia Phú Quốc

Vườn quốc gia Phú Quốc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vườn quốc gia Phú Quốc
IUCN II (Vườn quốc gia)


Vị trí tại Việt Nam
Vị trí miền Nam Việt Nam
Thành phố gần nhất thị xã Hà Tiên
Tọa độ 10°19′30″N 103°57′00″ETọa độ: 10°19′30″N 103°57′00″E
Diện tích 314,22 km²
Thành lập 2001
Cơ quan quản lý UBND tỉnh Kiên Giang
Vườn quốc gia Phú Quốc là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm tại đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Vườn quốc gia Phú Quốc được thành lập theo Quyết định số 91/2001/QĐ-TTg ngày 8 tháng 6 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về việc chuyển hạng Khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc đảo Phú Quốc thành Vườn Quốc gia Phú Quốc.
Mục lục [ẩn]
1 Vị trí
2 Quy mô diện tích
3 Chức năng
4 Cơ quan quản lý
5 Hoạt động du lịch
6 Các giá trị đa dạng sinh học
7 Các dự án có liên quan
8 Dân số trong vùng
9 Liên kết ngoài
[sửa]Vị trí

Vườn quốc gia Phú Quốc bao gồm địa phận khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc đảo, khu vực núi Hàm Rồng, Gành Dầu và Cửa Cạn. Vườn có ranh giới hành chính thuộc các xã: Gành Dầu, Bãi Thơm, Cửa Cạn và một phần các xã Cửa Dương, Hàm Ninh, Dương Tơ, và thị trấn Dương Đông thuộc huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Vườn quốc gia Phú Quốc trải dài từ 10°12' đến 10°27' vĩ bắc và từ 103°50' đến 104°04' kinh đông.
[sửa]Quy mô diện tích

Tổng diện tích 31.422 ha, bao gồm: khu bảo vệ nghiêm ngặt 8.603 ha, phân khu phục hồi sinh thái 22.603 ha, phân khu hành chính và dịch vụ 33 ha.
[sửa]Chức năng

Bảo tồn hệ sinh thái rừng nhiệt đới hải đảo, nguồn gen động, thực vật rừng quý hiếm và có giá trị, các sinh cảnh rừng tự nhiên độc đáo của rừng trên đảo.
Duy trì và phát triển độ che phủ của thảm thực vật rừng để đảm bảo chức năng phòng hộ rừng đầu nguồn, cung cấp nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt của nhân dân, phát triển bền vững kinh tế, xã hội của huyện đảo Phú Quốc.
Góp phần củng cố an ninh quốc phòng, tăng cường sức mạnh cho tuyến phòng thủ tây nam Việt Nam.
[sửa]Cơ quan quản lý

UBND tỉnh Kiên Giang đã có Quyết định 01/2002/QĐ-UB ngày 17/01/2002 thành lập Ban quản lý trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, gồm Ban giám đốc và các phòng chức năng. Năm 2002, biên chế của Ban quản lý là 32 người.
[sửa]Hoạt động du lịch

Vườn quốc gia Phú Quốc đã thu hút nhiều khách du lịch nhờ cảnh đẹp thiên nhiên và những bãi biển hoang sơ, hơn nữa Phú Quốc rất có tiềm năng về du lịch sinh thái được chính quyền cho là một chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế một cách bền vững, giảm thiểu những tác động của du lịch với môi trường tự nhiên.
[sửa]Các giá trị đa dạng sinh học

Hiện nay có ít thông tin về khu hệ động vật đảo Phú Quốc. Thảm thực vật nơi đây là rừng thường xanh trên địa hình đồi núi thấp. Vườn quốc gia Phú Quốc có đến 12.794 ha rừng, trên các đai cao rừng còn giầu, tuy vậy ở các đai thấp rừng bị suy thoái nhiều, với ưu thế ở đây là các cây họ Đậu (Fabaceae). Đến nay đã ghi nhận được 929 loài thực vật trên đảo. Cũng có một vài ghi nhận cho rằng ở Phú Quốc trước đây có loài vượn Pillê sinh sống.
Phần biển Phú Quốc rất phong phú và đa dạng, các rặng san hô bắt gặp ở quanh các đảo nằm ở phía nam. Các rặng san hô này chiếm đến 41% diện tích. Khu hệ cá trong các rặng san hô rất phong phú, các loài họ Cá mú (Serranidae) và họ Cá bướm (Chaetodontidae) và nhiều loài có giá trị kinh tế khác. Đã thống kê được 89 loài san hô cứng, 19 loài san hô mềm, 125 loài cá ở rặng san hô, 132 loài thân mềm, 32 loài da gai và 62 loài rong biển, trong đó nhiều loài quan trọng như trai tai tượng (Tridacna squamosa) và ốc đun cái (Trochus nilotichus). Phú Quốc đã ghi nhận loài đồi mồi (Eretmochelys imbricata) đến vùng biển này đẻ trứng, nhưng đến nay tần suất gặp chúng là rất ít, ngoài ra có các thông tin từ người dân địa phương về sự xuất hiện của bò biển dugong nhưng vẫn chưa có nghiên cứu chính thức.
[sửa]Các dự án có liên quan

[sửa]Dân số trong vùng

Dân cư trên đảo Phú Quốc là dân du nhập từ nhiều vùng khác nhau. Trên đảo ngư nghiệp là hoạt động kinh tế chính, mặc dù vậy du canh, du cư là mối đe doạ lớn đối với đa dạng sinh học.
[sửa]Liên kết ngoài

Quyết định của thủ tướng chính phủ Việt Nam về việc "Chuyển hạng Khu bảo tồn thiên nhiên Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang thành Vườn quốc gia Phú Quốc"
[ẩn]
x • t • s
Vườn quốc gia Việt Nam
Vùng trung du và miền núi phía Bắc
Ba Bể • Bái Tử Long • Hoàng Liên • Tam Đảo • Xuân Sơn

Đồng bằng Bắc Bộ
Ba Vì • Cát Bà • Cúc Phương • Xuân Thủy
Bắc Trung Bộ
Bạch Mã • Bến En • Phong Nha-Kẻ Bàng • Pù Mát • Vũ Quang
Duyên hải Nam Trung Bộ
Núi Chúa • Phước Bình
Tây Nguyên
Bidoup Núi Bà • Chư Mom Ray • Chư Yang Sin • Kon Ka Kinh • Yok Đôn
Đông Nam Bộ
Bù Gia Mập • Cát Tiên • Côn Đảo • Lò Gò-Xa Mát
Tây Nam Bộ
Mũi Cà Mau • Phú Quốc • Tràm Chim • U Minh Hạ • U Minh Thượng

Hoàng Sa Tự


Hoàng Sa Tự

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hoàng Sa Tự là ngôi miếu cổ của người Việt xây dựng trên đảo Phú Lâm của quần đảo Hoàng Sa[1], đảo này Trung Quốc chiếm giữ vào đêm 20 rạng ngày 21 tháng 2 năm 1956, Việt Nam và Trung Quốc cùng tuyên bố chủ quyền.

Hoàng Sa Tự được cho rằng được xây dựng trong mười ngày. Miếu có một gian theo thể chế nhà đá. Bên trái miếu, phía trước miếu xây bình phong. Ba mặt miếu Hoàng Sa bên trái, bên phải và đằng sau đều trồng các loại cây do quân nhân đến đảo đem theo hạt giống gieo trồng như hạt quả thủy nam. [cần dẫn nguồn]

Cửa vào miếu có khắc hai bên hai câu: Cô hồn miếu, cô hồn diễu diễu 孤魂庙,孤魂渺渺; Hoàng sa tự, bích huyết Hoàng sa 黄沙寺,碧血黄沙。 Phía trên là bức Hoành phi có ghi “海不扬波” “Hải bất dương ba” có nghĩa là "Biển không nổi sóng"

Trong miếu có ghi niên hiệu “大南皇帝 保大十四年三月初一”Đại Nam Hoàng Đế Bảo Đại thập tứ niên tam nguyệt sơ nhất"

Nếu căn cứ việc Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị làm vua lấy niên hiệu Bảo Đại vào ngày 8 tháng 1 năm 1926,thì Hoàng sa tự có thể được trùng tu năm 1939 sau khi bị bão làm sụp đổ chứ không phải Hoàng sa tự được xây vào ngày 01/03/1934 (Âm lịch) và sụp đổ vào năm 1939 như một số tài liệu Trung quốc đã ghi.

Sau khi Trung Quốc đổ quân chiếm đóng Phú Lâm, các nhà khảo cổ Trung Quốc đến Hoàng Sa đã phát hiện ra Hoàng Sa Tự. Trong tạp chí "Lữ hành gia" quyển 6 xuất bản năm 1957 tại Bắc Kinh đã có bài mô tả về Hoàng sa tự như đã nêu ở trên

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã, Hoàng Sa Tự là "bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam" tại Hoàng Sa.[1]

Hoàng Sa tự tồn tại ít nhất đến năm 1957 nhưng ngày nay không còn nữa.

Đảo Phú Lâm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đảo Phú Lâm là một trong hai đảo lớn nhất trong nhóm Đông (Amphitrite Group hay nhóm An Vĩnh theo tài liệu của Việt Nam Cộng Hòa), thuộc quần đảo Hoàng SaBiển Đông. Tên tiếng Anh: Woody Island, tiếng Pháp: île Boisée, Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Hưng (chữ Hán phồn thể:永興; chữ Hán giản thể:永兴, bính âm:Yongxing). Đảo có nhiều cây cối tươi tốt nên mang tên Phú Lâm.

Cả Việt NamTrung Quốc đều tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đảo Phú Lâm. Hiện nay, Trung Quốc đang quản lý hòn đảo này.

Đảo nằm ở tọa độ 16°50' vĩ Bắc, 112°19' kinh Đông. Đảo Phú Lâm nằm bên đảo Hòn /Đá Tháp (Rocky Island, cao 50 ft), diện tích lớn hơn Hòn Đá nhưng cao độ thấp hơn rất nhiều. Đây là đảo quan trọng nhất của nhóm đảo An Vĩnh và quần đảo Hoàng Sa.

Hình thể: Đảo dài tới 1,7 km, chiều ngang 1,2 km, diện tích 320 acres hay chừng 1,3-2,1 km².

Trước thế chiến thứ hai, Pháp đã đặt một trạm khí tượng trên đảo này mang số hiệu 48859. Trên đảo còn cóHoàng Sa Tự được cho rằng xây từ thời vua Minh Mạng và một số công trình quân sự khác.

Trong thế chiến thứ hai, Nhật chiếm đóng đảo này. Cùng với đảo Ba Bình, đảo Phú Lâm đã bị quân đồng minh tấn công bằng không quân và hải quân.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, vào tháng 6 năm 1946 Hải quân Pháp gửi chiến hạm Savorgnan de Brazzađến chiếm các đảo Hoàng Sa. Vì chiến tranh Việt Pháp bùng nổ dữ dội, vào tháng 9/1946 người Pháp rút quân khỏi Hoàng Sa. đóng luôn đảo này.

Vào ngày 26/6/1946 , dựa trên Tuyên bố CairoTuyên bố Potsdam, 4 tàu chiến của Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên quần đảo với lý do giải giáp quân Nhật (đáng lẽ phải làm năm 1945). Ngày 7 tháng 1 năm 1947, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố họ đã chiếm giữ quần đảo Tây Sa nhưng thực ra mới chỉ chiếm đảo Phú Lâm mà họ gọi là đảo Vĩnh Hưng.

Ngày 17 tháng 1 năm 1947, pháo hạm Le Tonkinois của Hải quân Pháp đến quần đảo Hoàng Sa để đòi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi đây. Khi yêu cầu này bị từ chối, quân Pháp bèn đổ 10 quân nhân Pháp và 17 quân nhân Việt Nam chiếm giữ đảo Hoàng Sa (Pattle Island). Đến tháng 4 năm 1950, sau khi Trung Hoa Dân quốc chạy ra Đài Loan, quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm và đảo Thái Bình (thuộc quần đảo Trường Sa).

Mãi tới 7 năm sau khi làm chủ được lục địa, Trung Quốc mới bí mật cho quân chiếm đóng đảo Phú Lâm vào đêm 20 rạng ngày 21 tháng 2 năm 1956.

Trung Quốc đã xây dựng một sân bay lớn đáp ứng được việc cất/hạ cánh cho các máy bay hạng nặng cùng hai bến cảng tàu lớn trên đảo Phú Lâm. Hiện nay cơ sở hạ tầng trên đảo Phú Lâm đã hoàn chỉnh và được tổ chức như một thị xã, nhằm phục vụ mục đích quốc phòngkinh tế của Trung Quốc trong toàn bộ khu vực biển Đông Việt Nam.

Hiện nay Trung Quốc đặt Bộ chỉ huy toàn thể lực lượng quân trú phòng quần đảo Hoàng Sa ở đây. Căn cứ quân sự này kiên cố nhất trên Biển Đông. Sách Ocean Yearbook 10 (Chicago 1993) cho biết có tới 4.000 binh sĩ Hải quân và Thủy quân Lục chiến trong vùng biển Hoàng Sa. Phần lớn số lính này đóng tại đảo Phú Lâm, số ít đóng trên đảo Lincoln và các đảo thuộc nhóm Trăng Khuyết.

Đảo có cầu tàu lớn, phi trường, đài kiểm báo, kinh đào và nhiều tiện nghi quân sự khác.




Đảo Phú Lâm

Hải chiến Hoàng Sa 1974

Hải chiến Hoàng Sa 1974

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hải chiến Hoàng Sa
Thời gian18 tháng 1 năm 1974
Địa điểmQuần đảo Hoàng Sa
Kết quảHải quân Trung Quốc chiến thắng
  • Hải quân Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa
  • Mâu thuẫn tiếp diễn giữa Trung QuốcViệt Nam về vấn đề biển Đông
Tham chiến
Naval Ensign of the People's Republic of China.svg Hải quân Quân đội giải phóng nhân dân Trung hoaFlag of South Vietnam.svg Hải quân Việt Nam Cộng hòa
Chỉ huy
Nguỵ Minh SâmĐề đốc Lâm Ngươn Tánh
Lực lượng
2 tảo lôi hạm
4 liệp tiềm đỉnh loại Krondstadt
2 chiến hạm chở quân cùng 4 tiểu đoàn thủy quân lục chiến
2 tuần dương hạm
1 hộ tống hạm
1 khu trục hạm
1 đại đội hải kích
1 nhóm biệt kích quân
1 trung đội quân địa phương
Tổn thất
4 tàu bị hư hại nặng
18 thủy thủ
Thương vong lính thủy không rõ
1 hộ tống hạm chìm
hơn 40 thủy thủ
16 người bị thương
48 tù binh
.

Hải chiến Hoàng Sa là một trận chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòaHải quân Trung Quốctừ 17 đến 19 tháng 1 năm 1974 trên quần đảoHoàng Sa. Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam Cộng hòa đã thu hồi chủ quyền toàn bộ quần đảo này từ chính phủ bảo hộ Pháp nhưng một phần quần đảo đã bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho quân ra chiếm giữ khi người Pháp rút đi, Việt Nam Cộng hòa chỉ chiếm giữ và thực hiện chủ quyền được một phần quần đảo cho đến khi cuộc hải chiến xảy ra. Sau trận chiến, Trung Quốc đã chiếm đóng toàn bộ quần đảo cho đến nay.

Mục lục

[ẩn]

[sửa]Bối cảnh

Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết (Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Đức (Amphitrite group). Dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây, trực thuộc ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.

Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo.

Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm, trong đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa), đảo Macclesfield (Trung Sa), quần đảo Bành Hồ (Pescadores)[1].

Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộcChiến tranh Việt Nam chống lại Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.

Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòaPhạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận 12 hải lí của Trung Quốc[2].

Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnhQuảng Nam của Việt Nam Cộng hòa.

Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong[3]. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.

Năm 1970, Hoa KỳNhật BảnHiệp ước trao trả Okinawa (Okinawa Reversion Treaty) trao trả quần đảo Điếu Ngư (Diaoyu) (tức Sento Shosho hay Senkaku Retto của Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự phản đối của Đài Loan và Trung Quốc; và cùng năm Đô đốc Elmo Zumwalt, cựu Tham mưu trưởngHải quân Hoa Kỳ họp báo tuyên bố tại Guam rằng Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải đảo tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Theo nhận định của Hải quân Việt Nam Cộng hòa thì đây là sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và là nguy cơ cho Việt Nam Cộng hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa.[4].


Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiếp tục chạm súng trên hải phận Hoàng Sa. [5] Những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam, vì nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến của Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ còn một trung đội địa phương quântrấn giữ nhóm Nguyệt Thiềm.

Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Đệ thất Hạm đội rút quân và thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ đã xem việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam Cộng hòa.

Năm 1974 Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm Nguyệt Thiềm. Khi một phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường nói trên thì khám phá ra sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra sau đó.

[sửa]Tương quan lực lượng

Phía Việt Nam Cộng hòa có 4 chiếm hạm là Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5), Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), một đại đội hải kích thuộc Hải quân Việt Nam Cộng hòa, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và một trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.

Phía Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có 4 chiếm hạm trực tiếp tham gia trận chiến là Liệp tiềm đĩnh số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 391. Sau khi trận chiến đã kết thúc, thì Liệp tiềm đĩnh số 282, Liệp tiềm đĩnh số 281 mới đến tăng viện. Ngoài ra, phía Trung Quốc có hai tàu chở quân số 402 và số 407 (không rõ loại), và lực lượng thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục chiến, trinh sát (không rõ số lượng).

Tương quan lực lượng, mỗi bên có 4 chiến hạm trực tiếp tham chiến. Tuy nhiên, Việt Nam Cộng hòa có ưu thế vượt trội, với các chiến hạm lớn, trang bị pháo và súng lớn hơn, mạnh hơn, nhiều hơn so với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

[sửa]Diễn tiến

Ngày 16 tháng 1 năm 1974, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt sau khi đưa một phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa phát hiện hai chiến hạm số 402 và số 407 của Hải quân Trung Quốc gần Cam Tuyền, và phát hiện quân Trung Quốc chiếm đóng hoặc cắm cờ Trung Quốc tại các đảoQuang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc.

Bích chương của Trung Quốc nói về trận chiến ở Hoàng Sa

Sau khi cấp báo về Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tạiĐà Nẵng, HQ-16 dùng quang hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời lãnh hải Việt Nam. Các chiến hạm Trung Quốc không rời vùng, và cũng dùng quang hiệu yêu cầu phía Việt Nam Cộng hòa rời lãnh hải Trung Quốc.

Ngày 17 tháng 1 năm 1974, Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng Sa đổ bộ một toán biệt hải và một đội hải kích xuống Cam Tuyền để nhổ cờ Trung Quốc. Sau đó các chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa rút trở lên tàu. Cùng trong ngày Liệp tiềm đĩnh số 274 và Liệp tiềm đĩnh số 271 của Trung Quốc xuất hiện.


Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân Việt Nam Cộng hòa bay ra Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để trực tiếp chỉ huy trận đánh. Ông ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc. Lực lượng hành quân Hoàng Sa 1 được tăng cường thêm Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) làm soái hạm cho cuộc hành quân, và Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). Do hải hành lâu ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham chiến với một máy bất khiển dụng, chỉ còn một máy hoạt động.

8 giờ 30 ngày 19 tháng 1, hai nhóm Biệt Hải của Việt Nam Cộng hòa gồm 74 người đổ quân đảo Quang Hòa, bị một đại đội của hải quân Trung Quốc tấn công. Cuộc giao tranh dẫn đến thương vong của Hải quân VNCH gồm có 2 người chết và 2 bị thương, các toán Biệt Hải được lệnh rút về HQ-5[6].

10 giờ 22 cùng ngày, 2 chiến hạm của phía Việt Nam Cộng hòa là HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo Hoàng Sa theo thế gọng kìm, nổ súng trước vào các tàu chiến Trung Quốc đang neo đậu trong khu vực này. Các tàu Trung Quốc tích cực di chuyển và phản kích dữ dội. Hai chiến hạm còn lại của Việt Nam Cộng hòa là HQ-4 và HQ-5 tiến vào lòng chảo, tham chiến từ phía tây nam. Sau khoảng 20 phút giao chiến, HQ-10 bốc cháy tại chỗ, HQ-16 trúng đạn pháo phải rút chạy về phía tây. Khu trục hạm HQ-4 và HQ-5 thương tích rất nhẹ, bỏ chạy về phía đông nam, hướng về vịnh Subic, Philippines. Các tàu phía Trung Quốc bị hư hại nặng, một tàu phải ủi bãi, một tàu bốc cháy, không đủ sức đuổi theo.

Trong thời gian xảy ra chiến sự, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa nhận được thông báo của Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn, cho biết radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số tàu chiến và chiến đấu cơ từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa. Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa sau đó yêu cầu Đệ thất Hạm đội trợ giúp, nhưng phía Mỹ từ chối. Các chiến hạm Việt Nam Cộng hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa[7].

Đêm hôm đó, 3 chiến hạm VNCH bị hư hại được lệnh rút về căn cứ. Về đến Đà Nẵng, khi kiểm tra thì mới biết HQ-16 bị chính hỏa lực bạn là HQ-5 bắn trọng thương. Đối với Hộ tống hạm HQ-10 trong ngày 19 đã bị trúng đạn và bị chìm.

Hôm sau, 20 tháng 1, 4 phi cơ MiG-21MiG-23 của Trung Quốc oanh tạc các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, và Hoàng Sa. Tiếp đó, quân Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của VNCH trên các đảo này. Sau 20 phút, lực lượng của VNCH trên các đảo bị mất liên lạc[8]

[sửa]Kết quả

Tập tin:PLAN-389C.jpg
Tảo lôi hạm số 389 Hải quân Trung Quốc

Theo tài liệu của Việt Nam Cộng hòa thì 274 trúng đạn, tay lái bất khiển dụng phải ủi vào bãi san hô để thủy thủ đoàn đào thoát, 271 hoặc 389 bị chìm tại trận, và 389 và 391 bị hư hại nặng. HQ-10 trúng đạn vào pháo tháp bị chìm tại trận, HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng 15 độ, HQ-5 và HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ tử vong và hạm trưởng Ngụy Văn Thà của HQ-10 tuẩn tiết theo tàu. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương. Hai ngày sau trận hải chiến, ngày 20 tháng 1, tàu chở dầu Hòa Lan "Kopionella" vớt được 23 người thuộc thủy thủ đoàn của HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Đến mười ngày sau, ngày 29 tháng 1, ngư dân Việt Nam vớt được một toán quân nhân Việt Nam Cộng hòa gần Mũi Yến (Qui Nhơn), gồm 1 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 12 quân nhân thuộc lực lượng đổ bộ lên Quang Hòa, đã dùng bè vượt thoát đảo sau trận hải chiến[9].

Theo một bài "Không thể chấp nhận được!" của Bùi Thanh đăng trên báo Tuổi Trẻ Online ngày Thứ Năm, 06/12/2007, 08:14 (GMT+7}[10] "Trong trận hải chiến lịch sử và không cân sức này, 58 binh sĩ quân đội Sài Gòn đã ngã xuống nhưng không giữ được mảnh đất thiêng liêng của ông cha."

Theo tài liệu của Trung Quốc thì 274, 271, 389, 391 đều trúng đạn, 281, 282 và 402, 407 bị hư hại trung bình, HQ-10 bị chìm tại trận. Trung Quốc bắt giữ 48 tù binh, trong đó có một người Mỹ[11]. Trung Quốc có trao trả tù binh sau đó tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập đỏ.

Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ thời điểm này. Sau trận chiến, Việt Nam Cộng hòa đã ra nhiều tuyên bố cũng như trưng ra các chứng cớ lịch sử về chủ quyền của mình[cần dẫn nguồn] và đã được Chính phủ Pháp ủng hộ vì trước đây theo Hòa ước Pháp Thanh thì người Pháp đã thực hiện chủ quyền ở quần đảo này. Tuy nhiên, Trung Quốc đã cho đập phá các bia chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, đào các mộ của người Việt đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của người Việt.

Phản ứng trước vụ việc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ tuyên bố rằng "các nước liên quan nên giải quyết mâu thuẫn bằng đàm phán trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, và quan hệ láng giềng". [cần dẫn nguồn]Họ đã không thể làm gì hơn, do Hoàng Sa nằm ngoài tầm kiểm soát của họ, và họ vẫn cần đến viện trợ quân sự và kinh tế của Trung Quốc. Ngay sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc này đã gây ra sự bất bình lớn của Trung Quốc và bắt đầu một thời kỳ quan hệ căng thẳng giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc[12].

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay vẫn khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và vùng lãnh hải liên quan trên biển Đông.

[sửa]Xem thêm

[sửa]Tham khảo / Chú thich

  1. ^ Security Implications of Conflict in the South China Sea: Exploring Potential Triggers of Conflict A Pacific Forum CSIS Special Report, của Ralph A. Cossa, Washington, D.C. Center for Strategic and International Studies, 1998, trang B-2
  2. ^ Nhân Dân số 1653, 22 tháng 9 năm 1958
  3. ^ Dyadic Militarized Interstate Disputes Data (DyMID), phiên bản 2.0 tabulations
  4. ^ Hải Chiến Hoàng Sa, Bão biển Đệ Nhị Hải Sư, tác giả xuất bản, Australia, 1989, trang 101
  5. ^ DyMID, đã dẫn trên
  6. ^ Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer's War Kiem Do and Julie Kane, Naval Institute, Press, Annapolis, Maryland, 1998, chương 10.
  7. ^ Thế giới lên án Trung-Cộng xâm lăng Hoàng-Sa của VNCH, Tổng cục chiến tranh chánh trị, Cục tâm lý chiến, QLVNCH, 1974. tr. 8.
  8. ^ Thế giới lên án Trung-Cộng xâm lăng Hoàng-Sa của VNCH, Tổng cục chiến tranh chánh trị, Cục tâm lý chiến, QLVNCH, 1974. tr. 10.
  9. ^ Thế Giới Lên Án Trung Cộng Xâm Lăng Hoàng Sa Của VNCH. Tài liệu Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, Sài Gòn, 1974, trang 11.
  10. ^ Tây Sa Hải Chiến—Thống Kích Nam Việt Hải Quân (西沙海战――痛击南越海军) Tân Hoa Xã 2003-01-20, xem tại đây [13]
    Tây Sa Hải Chiến Tường giãi (đồ) (西 沙 海 战 详 解 [图]), xem tại đây [14] có ảnh HQ-4 chụp từ tàu Krondstadt của Trung Quốc trước khi nổ súng.
  11. ^ Nayan Chanda, Brother Enemy. Wars after war, Harcourt Brace Jovanovich Publisher, 1986, tr.21
  12. ^ Không thể chấp nhận được!, Tuổi Trẻ 06/12/2007
  13. ^ Bài viết về trận chiến Hoàng Sa trên blog của tác giả Bùi Thanh

[sửa]Liên kết ngoài